MỘT GÓC NHÌN VỀ LẠM PHÁT

Câu chuyện về lạm phát luôn luôn là chủ đề được đem ra bàn tán. Có sự đồng thuận về quan điểm nhưng cũng có không ít những bất đồng xoay quanh cách hiểu lạm phát và cách điều hành chính sách tiền tệ.

Để hiểu rõ hiện tượng lạm phát cũng như các hiện tượng tài chính – tiền tệ trong các nền kinh tế, tôi cho rằng trước hết chúng ta cần phải hiểu được bản chất của tiền tệ và các chức năng của nó. Không phải ngẫu nhiên mà nội dung Tiền tệ thường được các sách Kinh tế học (kể cả Kinh tế Chính trị học, Tài chính – Tiền tệ) bàn đến đầu tiên.

Trong giới hạn bài viết này tôi không trình bày lại thế nào là bản chất và nội dung các chức năng của tiền tệ, tôi cũng không có ý định cũng như tham vọng đưa ra một định nghĩa chính thống nhất về lạm phát trên quan điểm của bản thân. Tôi chỉ muốn chia sẻ một suy nghĩ nhỏ của mình về vấn đề nhìn nhận lạm phát, với hi vọng nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các nhà nghiên cứu dày dặn kinh nghiệm.

mot-goc-nhin-ve-lam-phat

Hai trường phái: Lạm phát Giá cả và Lạm phát Tiền tệ

Cho đến nay ở Việt Nam, về cách hiểu và định nghĩa lạm phát, có thể chia ra hai trường phái: Lạm phát Giá cả và Lạm phát Tiền tệ. Nội dung cơ bản của hai dòng quan điểm này là: những người theo trường phái Lạm phát Giá cả cho rằng hiện tượng lạm phát là do giá cả tăng lên, nói chính xác là mức giá cả chung tăng lên theo thời gian; trong khi đó người theo trường phái Lạm phát Tiền tệ cho rằng lạm phát có căn nguyên là tiền tệ, hay nói chính xác là do sức mua của tiền tệ giảm theo thời gian.

Như vậy, một quan điểm thì cho rằng lạm phát so sức mua của tiền tệ giảm theo thời gian, còn quan điểm kia thì lại “đổ lỗi” cho mức giá cả chung tăng lên theo thời gian. Nhìn nhận vấn đề này như thế nào?

Chúng ta chắc phải biết, tiền tệ là vật ngang giá chung dùng để đo lường, biểu thị giá trị của hàng hoá (mang chức năng thước đo giá trị – standard of value) và qua đó giúp cho hàng hoá có thể lưu thông (mang chức năng là phương tiện trao đổi – medium of exchange). Ai cũng hiểu hàng hoá sản xuất ra yêu cầu cần phải lưu thông, trao đổi, tức để bán. Mà để có thể trao đổi được thì cần phải xác định được giá trị trao đổi. Như vậy, chức năng thước đo giá trị phải có trước, sau đó mới có chức năng phương tiện trao đổi. Song, chức năng phương tiện trao đổi là mục đích chính để từ đó phải có chức năng thước đo giá trị.

Kinh tế chính trị học đã chỉ rõ, để tiền làm chức năng thước đo giá trị của hàng hoá thì bản thân tiền phải có giá trị. Điều này cũng giống như yêu cầu về tư chất đạo đức của người làm công việc đánh giá tư chất đạo đức của người khác.

Nếu người làm công việc này bị xã hội cho rằng kém đạo đức thì những đánh giá của ông ta cũng không đáng tin cậy, không có ý nghĩa, thiếu thuyết phục.

Ban đầu, tiền là hàng hoá bởi hàng hoá tự nó phải có giá trị (và giá trị sử dụng). Hàng hoá dùng làm tiền tồn tại dưới hình thức là vàng (chế độ Bản vị Vàng*) đã xoá bỏ mọi tranh cãi về lạm phát. Đây là một trong những nội dung cốt lõi để hiểu về lạm phát. Sự sụp đổ của chế độ Bản vị Vàng với nhiều nguyên nhân đã chỉ rõ trong các sách kinh tế và sự ra đời của chế độ tiền pháp vị/tiền danh nghĩa() từ chế độ Bản vị bảng Anh đến chế độ đồng USD rồi chế độ tiền giấy pháp định ngày nay. Quá trình này làm cho các hệ thống tiền tệ luôn đứng trước khả năng (chính xác hơn là một hiện thực) “lún sâu” vào các cuộc lạm phát.

Fiat money – tiền định danh/tiền pháp định: những đồng tiền (giấy) mà chất liệu làm ra nó không có mấy giá trị nhưng được pháp luật và chính chủ mỗi nước quy định rằng giá trị của nó được phép sử dụng để thanh toán.

Bản vị vàng: chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định bằng hàm lượng vàng, Dưới chế độ bản vị vàng, tổ chức phát hành tiền mặt (ở dạng giấy bạc hay tiền xu) cam kết sẵn sàng nhận lại tiền mặt và trả vàng nếu được yêu cầu)

Vấn đề được dẫn dụ như thế này. Giả sử trước đây có một loại hàng hoá có giá trị 100.000 đồng/sản phẩm thì với một tờ tiền có mệnh giá 100.000 đồng, chúng ta có thể mua được 1 sản phẩm. Nay vì lý do gì đó, tờ tiền này bị mất giá trị 50%, nghĩa là mệnh giá của tờ tiền vẫn 100.000 đồng nhưng để mua được cùng loại hàng hoá trên ta phải bỏ ra 2 tờ cho 1 sản phẩm như trước.

Lưu ý rằng món hàng trên giá trị vẫn không đổi bởi đã không hề có một yếu tố nào tác động đến giá trị của nó cả.

Giá trị không đổi thì giá cả cũng phải không đổi vì xét theo lý thuyết (thị trường cạnh tranh hoàn hảo) giá cả chỉ là hình thức biểu hiện cho giá trị (không có điều ngược lại mà phải là giá trị là nội dung của giá cả). Vì vậy, nếu nhìn vào hiện tượng thì bạn chỉ thấy giá cả hàng hoá này là 200.000 đồng do người mua hàng phải trả 2 tờ mệnh giá 100.000 đồng để đổi lấy nó thì chớ có lầm tưởng giá trị của hàng hoá này đã tăng lên 200.000 đồng.

Về bản chất thì giá trị hàng hoá không đổi trong khi sức mua của tờ tiền giảm sút. Từ đây có thể kết luận rằng khái niệm lạm phát là hiện tượng (tình trạng) mức giá chung tăng lên không sai nhưng như chính bề mặt (câu từ) khái niệm này đã nói lên rằng nó chỉ cho thấy hiện tượng của lạm phát mà chưa thấy được bản chất.

Nghĩa là giá trị của loại hàng hoá trên không thể phải tăng lên 200.000 đồng cho đúng bằng giá cả mà mức giá 200.000 đồng kia phải được điều chỉnh về 100.000 đồng. Hơn nữa, điều chỉnh giá cả từ 200.000 đồng về mức giá để phản ánh đúng giá trị là 100.000 đồng không phải từ chính hàng hoá đó mà phải chính từ loại hàng hoá đặc biệt làm vật ngang giá, tức là tiền.

Vấn đề chưa thể dừng lại ở đây mà sẽ được giải quyết khi chúng ta lý giải được vì sao tờ tiền trên bị mất giá trị 50%. Chúng ta biết rằng; tờ tiền ban đầu đảm trách tốt chức năng thước đo giá trị và do vậy cũng thực hiện hoàn hảo chức năng phương tiện trao đổi thông qua hình thức biểu hiện là giá cả.

Điều này chỉ có được khi tiền bản thân nó có giá trị nội tại (như vàng); còn với tiền pháp định thì giá trị của tờ giấy làm nên tiền (chi phí làm ra tờ tiền) không thể bằng sức mua của nó hay giá trị của hàng hoá mà nó là đại diện 100.000 đồng kia không phải là giá trị của bản thân tờ tiền mà là giá trị đại diện cho một lượng giá trị hàng hoá. Khi chúng ta nói giá trị của tờ tiền giảm 50% tức nói cái giá trị đại diện kia giảm 50%.

Lý do từ đâu?

Lý do được tìm thấy ở chính quy luật lưu thông tiền tệ và chính sách tiền tệ của Ngân hàng TW. Nếu chỉ có 100 bao gạo và 50 người vác thì mỗi người sẽ vác 2 bao; nhưng tăng cường thêm 50 người nữa thì không thể nói ngược rằng mỗi người vẫn vác 2 bao để có 100 người và vác được 200 bao gạo; mà phải nói xuôi là mỗi người chỉ vác 1 bao mà thôi. Còn nếu muốn vẫn duy trì mỗi người vác 2 bao thì cần tăng thêm 100 bao gạo nữa vậy; tức phải tăng thêm một lượng giá trị hàng hoá tương ứng bằng việc sản xuất ra một lượng sản phẩm hàng hoá tăng thêm.

Vậy lạm phát là một thuật ngữ kinh tế mà bản chất của nó là giá trị danh nghĩa (mệnh giá) của tiền bị suy giảm một cách tương đối so với cái giá trị mà đáng lẽ nó phải đại diện tốt khi nó “dám” xung phong làm đại diện. Khi con người “đẻ” ra tiền dấu hiệu thì họ cũng phải chịu trách nhiệm “nuôi dạy” và “chỉ bảo” nó.

Chính chính sách tiền tệ mới là thủ phạm chính gây ra tội lạm phát vì nó có thể làm ảnh hướng đến cung tiền và từ đó là sức mua của tiền tệ.

Mục tiêu của chính sách tiền tệ một lần nữa khẳng định là kiểm soát lạm phát; ổn định sức mua của tiền tệ. Lạm phát là một vấn đề thuộc về tiền tệ. Chính sách tiền tệ phải có nhiệm vụ đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát và phải chịu trách nhiệm trước tình trạng lạm phát trong nền kinh tế.

Lạm phát là hiện tượng ngẫu nhiên tồn tại khách quan trong nền kinh tế có lưu thông tiền. Diệt hẳn lạm phát là điều cực kỳ khó khăn nếu không muốn nói là không thể khi vẫn còn tiền pháp định. Xóa bỏ tiền pháp định buộc con người phải nghĩ ra một chế độ tiền tệ mới. Chừng nào “họ” nghĩ ra thì đó cũng là thời điểm đánh dấu sự chín muồi cho một sự quá độ từ chế độ tiền tệ này sang một chế độ tiền tệ khác như nó đã từng diễn ra trong lịch sử.

Các bài viết liên quan:

Mọi chi tiết xin liên hệ:

  • Hãng kiểm toán Calico
  • Địa chỉ: Tầng 29, Tòa Đông, Lotte Center Hà Nội,
  • Số 54 Liễu Giai, Phường Cống Vị, Quận Ba Đình, TP. Hà Nội
  • VPGD: Phòng 2302, Tháp B, Toà nhà The Light, đường Tố Hữu, Phường Trung Văn, Quận Nam Từ Liêm, TP. Hà Nội.
  • Hotline: 0966.246.800
  • Email: calico.vn@gmail.com
  • Website: kiemtoancalico.com| calico.vn/

Hãng kiểm toán Calico

icon-dau-tich Địa chỉ: VPGD: Phòng 2302, Tháp B, Toà nhà The Light, đường Tố Hữu, Phường Trung Văn, Quận Nam Từ Liêm, TP. Hà Nội.

icon-dau-tich Hotline: 0933.75.6666

icon-dau-tich Email: Calico.vn@gmail.com

icon-dau-tich Website: Calico.vn | kiemtoancalico.com